Lê Văn Thật
Kết thúc truyện Kiều, đại
thi hào Nguyễn Du viết:
Lời quê chấp nhặt dông dài
Mua vui cũng được môt vài trống canh
Nói "mua vui", song,
truyện Kiều chính là tác phẩm lớn, kinh điển của văn học trung đại
Việt Nam, phản ánh hầu như toàn diện bộ mặt xã hội đương thời. Giờ
đây, tôi lại đọc:
"Ngồi buồn gõ phím ghi chơi
Tạp văn mấy khúc
Lựa lời văn chương…"
của Trần Hoàng Vy, trong tạp
văn: "Cầm nhặt tri âm"
thì mới thấy " Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu".
Phải đâu "ghi chơi….mấy khúc"
? mà có cả tình yêu quê hương tuôn chảy dạt dào, cả nỗi niềm xót xa,
đau đớn, hạnh phúc, tự hào trước cầm nhặt đời thường…
Tôi cũng dăm lần đọc tạp văn, thích
cái thể loại tự do tự tại, yêu cái cảm phong phú, mến cái kiến
thức đa dạng, của nó. Tôi như thấy lại cả một thời " Cưới xin thời bao cấp" của nhà
văn Nguyễn Quang Lập; hay suy tư với " Chiếc bình vôi" của nhà văn lớn Hoàng Thái Sơn…Và giờ
đây sâu lắng với nhà thơ viết tản văn Trần Hoàng Vy.
Đọc: "Cầm nhặt tri âm", ta như nghe tiếng đàn lòng muôn điệu. Tạp
văn gồm hai phần. Ta sẽ chu du phần một: "Góp nhặt dọc đường" với 22 chất Việt cả nội lẫn
ngoại. Trước hết, ta thưởng thức những chuyến du lịch cảnh quang và
con người bình thường nhưng cũng đầy ấn tượng qua những tản văn giàu
chất thơ và tài hoa. Mời bạn đi "Từ
rạch Me ra sông Vàm Cỏ" để
thấy "…khuất sau cây tràm
bông trắng li ti, những bụi dứa dại, những cỏ năn, cỏ lát… hai bên bờ", rồi sảng khoái gặp anh Tuấn, một
nông dân triệu phú xã Phước Chỉ " chủ của những chiếc lồng bè…đưa
ta xuôi ngược…" mặc tình mà ngắm đất ngắm trời…
Bạn có đi Núi Bà chưa ? hãy tưởng
tượng ngồi trên cáp treo mà thưởng thức:" …cái với tay nhẹ, mây len vào trong tay, cầm mây trong tay, mà như
cầm mảnh lụa trinh khiết trắng ngần. Muốn tự tay quàng lên cổ người
bạn đồng hành dấu yêu mà chỉ sợ dải lụa kia tan biến mất".
Lạ. Rất lạ. Thà không quàng cổ bạn đồng hành để nắm được dải lụa
mây …Tôi chưa biết mình có làm được thế không ! Nhưng rõ, tình yêu
thiên nhiên của nhà văn thật đáng khâm phục.
Tôi thực sự ấn tượng em bé "…trạc mười bốn mười lăm tuổi đầu trọc lóc" trong "Sông ơi ! Chiều tím rồi". "Trần xì chiếc quần tà loỏn, chui
ra từ đống tro, vươn vai ngáp dài và như một con rái cá, cậu quăng
mình đánh chủm một cái đã biến mất tăm dưới làn nước". Từ
" trần xì" nghe rất lạ
mà cũng thật sảng khoái, nó vẻ ra hình thù em bé đen đủi, mạnh
khoẻ rặc vùng sông nước. Vì thế, bé đã vào lòng người một cách tự
nhiên. Và, xin gọi đó là chữ Trần Hoàng Vy.
Tôi không thể chịu được, không thể
chịu được, khi theo chân tác giả qua biên giới, đến Campuhia, để nhìn thấy
cảnh đau lòng này "Búp non
Việt trên sóng Tonlésap". Ta có biết đâu, những cháu bé Việt
bên bờ: "…xin tất cả những thứ
có thể xin được: tiền Ria, Dola, tiền Việt, cục kẹo, cái bánh…"
để chống chọi dữ dội với cái đói, cái nghèo… nặng như năm ngọn núi
đè Tề Thiên. Có gì nghẹn lại, nhức nhối, từ trong tim mình cứ đặt
ra câu hỏi phải làm gì đây ? phải làm gì đây cho những người Việt dù
đang sống xứ người. Năm trăm năm ư ? Không ! Ta phải phá ngay thành luỹ
của sự năng nề, trỉu nghẹn để cho em của ta tung mình lên, vượt qua
đói lạnh đời thường. Trần Hoàng Vy cứ bắt người đọc phải đặt ra
những câu hỏi như vậy, cứ bắt người đọc tự trả lời như thế ! Đấy !
bạn có thấy không, ngồi tại nhà, ta vẫn cứ mở nhiều chuyến du lịch
…mà tận hưởng cái thú của đất trời, cái cảm những cuộc đời...
Mảng đề tài này còn nhiều nữa, bạn
đọc sẽ khám phá "Hoa bọ cạp
nước" vàng rực cả cây, mà không thấy lá mới độc đáo làm
sao; về "Chợ huyện chiều
30" để thấy " …thoáng
đông cũng thoáng vắng đìu hiu…" rồi "Tản mạn với Gò Dầu" từ lịch sử đến hiện tại, hay "Tìm đâu câu hát ru hời" để
lắng lòng mà dặn dò con cháu mai sau nhớ hát Ầu ơ…
Tiếp đến, mảng thứ hai "Cầm nhặt tri âm" sẽ đưa
ta về với: hồn Việt. Hồn Việt, người Việt nào chẳng có, mà đôi khi
giữa bộn bề công việc, ta cứ để cho nó lắng sâu trong tâm hồn, cũng có
không ít kẻ đã chối bỏ, đã khướt từ, trốn tránh. Hồn Việt ! hai
tiếng thiêng liêng sẽ được gợi lên qua cây bút tài hoa, trí tuệ của
tác giả. Mở đầu, tôi muốn nói đến chiếc nón lá, rất đồng tình mà
cho rằng "Có lẽ không có mặt
hàng nào trên thị trường hiện nay, mang đẫm phong cách Việt và tâm
hồn Việt hơn chiếc nón là Việt Nam" Ở đó, ta bắt gặp sự
"mềm mại, giản dị như chính con
người Việt Nam"; chầm bằng loại cây mật cật VN; "…điệu múa nón mang đậm dấu ấn
…Việt Nam"; đệm vào trong chiếc nón những câu thơ Việt Nam. Chất
Việt trong nón lá nhiều như lịch sử của nó. Một người nước ngoài
chỉ cần đội chiếc nón lá, là tôi muốn ôm hôn họ. Thấy những chiếc nón
lá nghiêng nghiêng, duyên duyên trên truyền hình nghe mà ấm làm sao ! Tôi
tự nhiên mà đọc ngay:" Mẹ về
nón lá nghiêng che", "nghiêng nghiêng chiếc nón bài thơ"…mà tự hào mà kiêu hảnh…
Có một sự sáng tạo trong
cảnh nghèo làm ta xúc động, tôi bật cười trong tiếng khóc với " Chiếc lồng đèn lon bia" của
bác Năm cuối xóm. Rất thiện nghệ, rất nhanh, ông có thể tặng cho các
cháu nghèo vài chục cái lồng đèn…mặc tình mà " Tùng dinh dinh, cắc tùng dinh dinh"
rước cho được ánh trăng về soi bóng. Tuổi thơ ta như sống lại ngay
trong những bước lắc lư và âm thanh tùng dinh đó. U 50 rồi, tôi cũng muốn
thử lại: tùng dinh dinh cắc tùng dinh dinh, ôm eo ếch của bạn, lắc
lắc cái mông, nghẻo nghẻo cái đầu, mà đi cùng làng cuối xóm. Âm
thanh đầy chất nhạc ấy cứ giòn giã bên tai, để rồi trái tim ta cũng
tùng dinh tự hồi nào…. Trần Hoàng Vy đã khơi được điều đó.
Sẽ thiếu đi rất nhiều nếu như ta
không viếng mộ một danh nhân nào. Hiểu thế, tác giả dẫn ta tới "
Viếng thăm mộ ông cả Đặng Văn Trước".
Nhắc đến từ "Ông cả",
đến nay, người ta còn chưa hết rùng mình khiếp vía trước sự tàn độc
của quan lại chính quyền phong kiến xưa, nhưng ông Cả này lại là
người "…trung nghĩa, can trực.
Có công khai hoang lập ấp dựng làng lập chợ, khai hoá một vùng Phước Lộc của đất Trảng
Bàng xưa ". Giống như Nguyễn Công Trứ khai phá Kim Sơn, Tiền
Hải, ông Cả Trước khai phá vùng đất mà cả cái tên nghe cũng thắm
đẫm ước mơ "Phước Lộc".
Người dân đã suy tôn ông thành: " Bổn
cảnh thành hoàng làng Gia Lộc". Cho thấy, dân ta " Uống
nước nhớ nguồn" luôn ghi nhớ công ơn người có công với nước.
Và hồn Việt, không thể
không nói tới các món ăn đặc sản. Ông cha ta cũng từng viết:
Ta đi ta nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhờ cà dầm tương
Trong " Tản mạn trái cây Việt " ta hiểu nhiều kiến thức đôi
khi không ngờ tới " Những trái
ngon lạ, quý hiếm thường được gắn cho cái tên đi kèm với hai chữ
"ngự, tây" ví như chuối ngự, chuối Tây, mảng cầu Tây, dưa
Tây". Còn những tên trái cây gắn liền với một tên riêng nào
đó " Nhãn lồng Hưng Yên, cam Bố
Hạ, Bưởi Thanh Trà, Bưởi Năm Roi…" gợi ra loại trái cây đặc
sản, ngon tuyệt. Chỉ nghe thôi đã thèm…
Bây giờ, mời các bạn dùng thử bánh
canh Trảng Bàng nổi tiếng cả Miền Đông Nam Bộ trong bài "Chợt nhớ tô bánh canh xứ Trảng".
Xin mời bạn "…nước súp…thật
nóng sốt, chan vào tô bánh, thả vào mấy miếng thịt heo, một khoanh
giò, hành xắc nhuyển, mấy lát ớt thái mỏng nêm thêm muỗng tiêu vào
là tha hồ…" Ối trời ! nghe ngon ngọt, mát lòng mát dạ làm
sao ! hít hà một cái cho nó thoả …. Có người đi xa, nhớ cái hương vị
này mà dám vượt cả nửa vòng trái đất tìm về. Đúng là Trần Hoàng
Vy đãi cho chúng ta ăn một bửa tiệc văn chương, ngon thật ngon, no thật
no. Tôi phải xuống ngay Trảng Bàng mới được.
Ta tạm chia tay với phần
một, để đến với phần hai tràn đầy xúc cảm. Ở đây, theo tác giả ta
sẽ khám phá sâu vào tinh hoa của các nhà thơ và có cả chính tác
giả. 19 tản văn, là những cuộc đời, tâm hồn cũng quá nhiều trắc ẩn,
cũng buồn vui, đau đớn, hạnh phúc…Ngàn xưa, ông cha ta từng nói:
Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai.
Bởi vậy, len vào những cuộc đời, ta
cũng buồn vui, cũng đớn đau…Tác giả "Ghi chép tri âm" để ta gặp tri âm. Người đầu tiên tôi
gặp là " Nguyễn Đức Thiện,
người chưa dừng lại cuộc lang thang" để cảm ơn đời đã cho anh
"lang thang" về đất Tây
Ninh, trở thành tri âm của Trần Hoàng Vy và mọi người. Chuyến du hành
Tây Ninh ấy cũng lắm vòng vèo, đi vào lại trở ra, trở ra rồi cũng
không hiểu vì sao "…với một lá
thư viết tay của ông Sáu Thượng anh quay về Tây Ninh" để " Sống
gửi nạc, thác gửi xương". Tác giả trích hai câu của anh làm
tôi rùng mình:
"…Ta xé thân ta thành từng mảnh
Ném vào đời cho trọn kiếp lang thang…"
Đau đớn ! Chỉ hai câu vẻn vẹn, ta
bắt gặp một nỗi đau đời đau đớn. Nhà thơ đã trãi qua quảng đời
nghiệt ngã, để vươn lên như thế đó. Vậy mà nhà thơ Đức Thiện yêu dấu
của chúng ta dâng cho đời những " 9
tập tiểu thuyết, 7 tập truyện ngắn, 1 tập thơ…" đầy sức
sống. Và hỡi ơi ! Còn gì cao thượng hơn nữa khi đọc mấy dòng…Hãy
khoan ! Bạn hãy cùng tôi đọc thật chậm… thật chậm để lắng nghe tiếng
của trái tim: " Anh đi một tuần
lễ và trở về phấn khởi khoe với tôi ( Trần Hoàng Vy) Tớ đã làm xong
thủ tục hiến xác sau khi mất …". Tôi buông một tiếng Trời !
Thơ anh vốn đã dâng cho đời, giờ xác anh cũng không về với đất. Tôi
cảm, tôi cảm thật sự con người sáng ngời chất người đó. Một người
Việt Nam tuyệt đẹp.
Tôi
rất sẵn lòng hướng dẫn bạn tìm đến nhà thơ "Cảnh Trà với đôi dép vẹt mòn thời xuôi ngược". Bây
giờ, ông đã không xuôi ngược nữa rồi, ta hãy nghe Trần Hoàng Vy kể
"…ở khu phố 3 thị trấn Châu
Thành, mỗi sáng chống gậy nhúc nhắc ra cái chợ nho nhỏ gần đấy…"
Tôi khoái cái từ " nhúc nhắc
" nghe nó đa đã làm sao ấy, cứ tưởng tượng một lão già nhích
nhích, lắc lắc để đi mà kính mến làm sao ! Nhà thơ lão làng Tây Ninh
đấy ! Tác giả trích hai câu này của ông thật khoái khẩu, tôi đọc một
lần là thuộc:
Đụng nhau cũng ở ổ rơm
Khi thành chồng vợ, nằm giường… rơm không !
Cười ! Cười ra nước mắt mà
thương cảnh nghèo của thi sĩ. Phong thái này rặt Nguyễn Công Trứ rồi
! Nhận xét về thơ Cảnh Trà Trần Hoàng Vy thật sắc nét "Thơ Cảnh Trà bình dị như chính cuộc
đời anh, đó là lối thơ mộc mạc mang phong cách dân gian đồng quê".
Và cái ổ rơm kia chính là đồng quê hạnh phúc độc đáo, không lẫn vào
đâu được !
Tôi
tìm đến chính tác giả: Trần Hoàng Vy với " Chuyện bút danh, đừng nghĩ tôi pr…" Cái lém lĩnh nhạy
bén còn bé khi cô giáo hỏi " Tên
chi mà ngắn hè ! " - "Thưa cô, ngắn nhưng nhiều ý nghĩa…dài
ạ !" – " Răng dài ?" -"Dạ chữ Vĩnh viết theo lối
Hán tự là chữ "thuỷ" trên có dấu chấm tức là khơi cho dòng
nước chảy, nên…dài" Ô hay ! Cô cũng phải giật mình. Còn tôi
thì thật khoái. Thích thú khác cũng không kém, có một ai đó,
viết thư cho nhà thơ " Kính gửi chị…" vì tên chữ
Hoàng Vy rất nữ, cứ như là tên của một loài hoa. Cười. Với tập thơ
đầu tay "Ca dao của mẹ",
Thi sĩ Truy Phong nhận xét "Là
một cây lúa trên đồng ruộng, một giọt nước trên sông dài, Hoàng Vy
làm thơ theo truyền thống một dân tộc thi sĩ ". Tôi thì tôi
chưa đồng ý với nhận xét đó lắm, vì chưa thấy có nét riêng gì là Trần
Hoàng Vy cả. Và đến giờ, Trần Hoàng Vy đã có hơn 10 tác phẩm tung trời,
có tên tuổi trên đất Tây Ninh. Cũng là "Đất lành chim đậu"
từ Miền Trung, vì cái duyên Tây Ninh mà tìm đến. Tôi rất thích nghe
về mối tình của anh trong bài " Kỷ
niệm với nhà thơ Kiên Giang- Hà Huy Hà". Đây: "Ra về, tôi lại được cái… an ủi.
"Nàng thơ" nói ở trên lại cùng tôi …tản bộ suốt từ Đài
phát thanh về tới chợ Bến Thành " Và đó trở thành con đường
tình yêu. Con đường hoa lệ, lầu cao, xe cộ và ánh đèn sáng trưng đã
sáng trưng mối tình của anh.
Vân
vân…Ta còn bắt gặp nhiều cuộc đời cuộc thơ khác. Như, nỗi lòng tác
giả về văn học thiếu nhi cả khi vào Google; nhà giáo nhà thơ Trần
Ngọc Hưởng trong " Mắt xanh và
cái duyên văn học"; "Cảm
thức Lê Ngọc Trác với một chút
tình thơ" hay sự trăn trở đời thường trong ánh " Trăng ngân" của Nguyệt Quế.
Biết về nhà thơ có cái tên cũng như con người kỳ lạ: Lâm Tẻn Cuôi
càng làm ta cứ xuyến xao một thời áo trắng…. (Ở Bình Thạnh quê tôi,
cũng có người không phải nhà giáo, nhưng thơ áo trắng thì không dưới
mươi bài, đó là anh Đào Hữu Nhẹ) Rồi Lê Hồng Thiện, Phạm Văn Hạng,
Ngô Văn Tuấn, Trần Đỗ Liêm, Nguyễn Huỳnh Sa, Thạch Minh, Trần Ngọc
Tuấn, Nguyễn Văn Tài…mà mỗi người đều có chất riêng, nét riêng, hồn
riêng sâu lắng… Ẩn trong đời thường lắm mưa nhiều gió, tác giả đã
dâng đời những đứa con tinh thần thấm đẫm nghĩa tình" Ở Việt Nam
mỗi người là một thi nhân, có điều nó có được khơi nguồn hay không.
Bây giờ, tôi viết về nghệ
thuật. Nếu cần chọn một câu văn, thì tôi quyết định viết: Văn phong
Trần Hoàng Vy trong "Cầm nhặt
tri âm": sâu lắng, trí tuệ, tài hoa. Trong suốt tạp văn, chẳng
bao giờ tôi thấy tác giả nóng lên, sôi nổi lên, ngay cả những chỗ,
nếu là tôi thì nóng đến phỏng cả tay. Như, chỗ nhà thơ Nguyễn Đức
Thiện hiến xác, anh vẫn trầm trầm " …vậy là anh một lần nữa
muốn "lang thang", muốn cống hiến cho cuộc đời bằng chính
thân xác hình hài…". Hay như chỗ dòng sông Trà Khúc cá chết ngập
đầy sông ô nhiễm, tôi sẽ nóng lên nhiều, anh thì vẫn điềm đạm. Trầm
mặc, tỉnh táo, len lỏi vào ngỏ ngách tâm hồn, văn phong như chính con
người của anh thì quả thực là tuyệt. Đây, lúc anh trầm mặc "…Bỗng bâng khuâng tiếc nhớ những cánh
chim trong ca dao của xứ mình. Chợt buồn tự hỏi : "Bay về đâu rồi
những cánh chim trong cổ tích ?"… " Cái xa xôi trong câu hỏi chợt làm tôi bồi hồi nhớ
về cánh cò quê hương:
Con cò chấp cánh bay cao
Nhìn theo mà nhớ đường vào quê hương.
Không còn cánh cò, bởi vậy, nhiều cô
gái, chàng trai Việt không nhớ đường về. Hồi còn cắp sách, tôi thuộc
lòng câu nói của nhà văn lớn Nguyễn Minh Châu " Nhà văn là tên mật thám của tâm hồn" rất chính
xác với Trần Hoàng Vy.
Văn
của anh rất trí tuệ. Ở phần I, ta chứng kiến biết bao kiến thức đời
sống trong suốt 22 bài là 22 lĩnh vực khác nhau, mà mỗi lĩnh vực, cơ
man là kiến thức. Điểm sáng nhất là, anh vừa thưởng thức vừa đưa
người đọc vào cả một thế giới huyền ảo của đất trời, của cuộc
sống mà không phải ai cũng nhìn thấy. Đây, trong "Ngồi cáp treo cầm mây trắng trong tay"
ta cũng nghe lành lạnh "cầm
mảnh lụa trinh khiết trắng ngần cái với tay nhẹ, mây len vào trong
tay, cầm mây trong tay ". Anh rất hiểu về cây trái, cả nghệ
thuật ăn uống và rất biết tận hưởng "Mùa xuân và sóng ở hồ". Anh vững vàng với lịch sử
và thực tế địa phương ở nhiều vùng, cũng như đền thờ, đình
chùa…" Âm vang sóng Rạch Gầm, khơi dậy hồn thiêng sông núi, Viếng
mộ ông cả Đăng Văn Trước" mà ghi dấu tiền nhân. Anh biết và cảm
nhiều cuộc đời thi nhân, cuộc đời của những con người Việt Nam dung
dị, ham sống, vượt lên chính mình và cả người Việt ở xứ người …
Bây giờ là hai tiếng " tài
hoa". Trước hết, anh chính là nhà nghệ sĩ tìm từ, láy chữ.
Trong anh, chẳng bao giờ ngôn từ đứng yên, chúng luôn lạ lẫm, hấp dẫn,
uốn éo. Ta cứ nghe rối hẵn bình: năm
nảo năm nao, tròn lẳn, va vấp, trầm đục, hanh hao, xanh lắc xanh lơ,
líu ríu, nhúc nhắc, chông chênh chống chếnh, lung liêng lúng liếng…."
Bàn tay nghệ sĩ đã lèo lái, nhào nặn thẩm mỹ mà thành. Và, tôi
gọi đó là chữ rất Trần Hoàng Vy. Có những câu văn chơi chữ rất hay
"…thêm tí tiền tiêu tết"
rồi "cái thưở tung tăng theo mẹ…
" (Chợ huyện chiều 30) hàng
loạt phụ âm đầu giống nhau, tạo nên chút ồn ào trong sự trầm mặc vốn
dĩ của anh, cũng khiến người thích thú. Anh có cách đặt tựa bài rất
thu hút: Có còn ai nhặt lá mai,
Sông ơi chiều tím rồi, Đức Thiện, người chưa dừng lại cuộc lang thang,
Cảnh Trà, đôi dép vẹt mòn thời xuôi ngược….Mỗi tựa, ẩn chứa một
mơ ước, một câu hỏi, một dấu ấn cuộc đời…cứ như thôi miên con người
ta. Môtip các bài cảm nhận về các tác giả của anh không mới, cũng
là vài nét về cuộc đời, về tác phẩm…nhưng cái mới, đọc cứ như sờ
sờ ra đó, là kỷ niệm gắn bó sâu sắc của chính anh với nhân vật của
mình, có cả con đường mang tên em…
Ước gì, trong tạp văn của
anh, có thêm nhiều giọng điệu nữa !
Đã tới lúc phải dừng, tôi cũng chỉ tóm gọn một đôi lời. Tạp
văn "Cầm nhặt tri âm"
người du lịch của ta; khơi hồn Việt trong ta, làm bừng lên những hồng
cầu bấy lâu cứ nằm thim thỉm trong tâm hồn ta.
Bình
Thạnh 10/11/2011
LÊ
VĂN THẬT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét